Quảng Nam có các tộc người thiểu số gồm Cơ Tu, Xơ Đăng (gồm người Ca Dong, Xơ Teng, Mơ Nâm); Cor; Gié-Triêng (gồm người Ve, Tà Riềng, Bh nong) cư trú từ lâu đời ở vùng miền núi phía Tây của tỉnh. Cũng như các dân tộc thiểu số cư trú dọc Trường sơn và Tây Nguyên, các tộc người thiểu số Quảng Nam có tổ chức xã hội cổ truyền duy nhất, cao nhất là làng, tuỳ theo ngôn ngữ các dân tộc có tên gọi khác nhau : Người Cơ Tu gọi Vêêl, Bươl, Kr non; người Xơ đăng, Cor gọi Plây còn hiện tại thì gọi theo đơn vị hành chính làng, thôn thuộc xã, huyện.
Nếu như trong ý thức của người Việt ( Kinh ) trước đây " Nhà - Làng - Nước " là thiết chế xã hội mà họ gắn bó, gìn giữ, đấu tranh để bảo vệ khi có kẻ thù xâm hại và hình thành nên những đặc điểm trong sản xuất, văn hoá, đạo đức có tính nhân văn ...thì ở các dân tộc thiểu số số Quảng Nam chỉ có " Nhà - Làng " và ở đấy con người gắn kết cuộc sống lao động sản xuất hàng ngày, tín ngưỡng, tâm linh, quan hệ gia đình, xã hội cộng đồng tộc người. Họ có ý thức rất cao về dòng tộc, làng gốc, tinh thần cố kết cộng đồng, không gian sinh tồn, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi đối với làng của mình ; hơn 70, 80 năm trước đồng bào miền núi chưa có khái niệm và biết đến thiết chế xã hội tên làng, xã huyện, tỉnh như vùng người Việt ở đồng bằng nhưng về mặt xã hội và lịch sử phát triển của tộc người thì đặc điểm này hoàn toàn tương đồng như con người và tính chất xã hội, biểu hiện văn hóa của người Việt ỏ các làng, thôn vùng đồng bằng. Trước đây, ở làng, thôn, ý thức của từng cá nhân, từng gia đình hoàn toàn chịu và bị lệ thuộc vào ý chí chung của làng mà đại diện là người chủ làng và những người già làng; thực tế cho đến nay, bên trên đời sống theo sự quản lý và vận hành theo các cấp hành chính của Nhà nước thì bên dưới vẫn còn tồn tại sự vận hành của thiết chế xã hội cổ truyền. Có thể nói, về tính chất tổ chức xã hội cổ truyền nhìn từ làng, thôn vùng người Việt Quảng Nam vùng ở đồng bằng không khác nhau và những năm qua đến hiện nay làng, thôn người Việt vùng đồng bằng vẫn có sự hiện diện của một hệ thống tự quản của các tộc họ và vai trò quan trọng của những người có uy tín, người già trong làng, thôn trong tất cả các việc hệ trọng của cộng đồng.
Ở vùng dân tộc thiểu số miền núi, mỗi làng có một ranh giới được phân định bằng con suối, cánh rừng, tảng đá, đỉnh núi...Làng có một nguồn nước chung, khu rừng nghĩa địa, vùng núi săn bắn, những vùng đất canh tác của các thành viên trong làng, ngôi nhà sinh hoạt chung của cả làng, nơi hội họp, tiến hành các lễ nghi tín ngưỡng. Mỗi làng có một chủ làng, có một tập thể người già mà các nhà nghiên cứu dân tộc học gọi là Hội đồng già làng; là những người chủ các gia đình giúp việc cho chủ làng; Có một người chuyên lo công việc quân sự; chiến đấu chống kẻ thù, phòng thủ của làng; Có một người chuyên lo tín ngưỡng, lễ nghi (thầy cúng). Cho đến những năm sau ngày giải phóng cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống này vẫn còn duy trì. Quy mô của làng có từ 300 - 500 người với từ 40 - 70 gia đình (nóc nhà, bếp), hộ cư trú theo hình thức đại gia đình truyền thống từ 3 đến 4 thế hệ. Người Cơ tu thích lập làng ở đầu nguồn con suối (con nước); Người Bh Nong cả làng sinh sống trong một ngôi nhà dài phân chia thành nhiều phần nhà cho từng gia đình theo kiểu đoàn tàu lửa, người Xơ đăng trong mỗi làng lại chia thành nhiều nóc ... Tuy có khác nhau về hình thức cư trú nhưng điểm chung nhất là các gia đình thành viên (các nóc, các bếp) đều ở kề cận nhau để "tối lửa, tắt đèn có nhau", "có miếng thịt thú rừng gọi nhau uống rượu", "để con thú dữ, người dữ vào làng gọi nhau, đánh nhau"...Có thể nói đặc điểm cư trú gần với nhau là tập quán dựng nhà, lập làng của đồng bào, nó có tính thích nghi với đặc thù tự nhiên nhất là đất có độ dốc lớn, dạng đất bằng ít, phân tán. Bên cạnh đó đặc điểm cư trú của từng dân tộc đã tạo nên những sắc thái, giá trị văn hoá truyền thống khác nhau như mô típ lập làng theo vòng tròn hoặc vòng bầu dục của người Cơ tu; mỗi làng có một ngôi nhà sinh hoạt chung ( Nhà Gươl của người Cơ tu; nhà Rông của người Xơ đăng; nhà Ưng của người Gié - Triêng; nhà Cợt của người Cor ) bến nước, tượng cổng làng của người Xơ đăng... Nó hình thành nên nét riêng như " cây đa - bến nước - sân đình" của người Việt. Đến nay, về cơ bản ở các xã, thôn vùng thấp, thi trấn, vùng có trục lộ giao thông đi qua, mô hình làng, bản truyền thống đã bị phá vỡ; Xu hướng lập làng, làm nhà rãi ra, kéo dài theo trục lộ là phổ biến; nhiều làng, thôn muốn di dời đến nơi gần trục giao thông. Điều này là xu hướng đã, đang và sẽ diễn ra. Nên chăng trong nhiều mô hình làng, thôn văn hoá nên có những ngôi làng, bản giữ lại đặc điểm cư trú truyền thống của các dân tộc cùng với các thiết chế văn hoá khác, cảnh quan tự nhiên, khôi phục các làng nghề truyền thống để không chỉ là bản tồn mà sẽ có lúc nó là điểm giới thiệu cho du lịch văn hoá dân tộc - du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, thời gian qua ở vùng dân tộc miền núi Quảng Nam đã có phong trào khôi phục Nhà làng truyền thống, nhất là vùng người Cơ Tu; tỉnh cũng đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các làng dựng lại Nhà làng (nhà sinh hoạt cộng đồng). Có Nhà làng chính là sự hiện diện một cách sinh động những nét văn hoá cộng đồng làng: Người dân trở lại với những tập quán chung vai, chung sức lo việc làng, nhiều loại hình văn hoá văn nghệ dân gian, lễ hội cộng đồng, nghệ thuật tạo hình, kinh nghiệm kỷ thuật kiến trúc truyền thống được khôi phục, người nghệ nhân được tôn vinh, dân làng có một " công trình văn hoá " để tự hào, sự hiện diện của Nhà làng sẽ góp phần ngăn chặn được cái xấu từ bên ngoài vào cộng đồng làng, làng có được một thiết chế văn hoá vừa cổ truyền vừa hiện đại, có một ngôi nhà chung để dân làng hội họp.
Cho đến nay vùng dân tộc thiểu số Quảng Nam ít xảy ra hiện tượng xen cư, hỗn cư giữa người Kinh lên lập nghiệp và người dân tộc thiểu số trong một làng, thôn; đại bộ phận chỉ cận cư. Thực tế này có mặt tích cực là không làm xáo trộn không gian sống, đất cư trú của đồng bào Kinh lẫn dân tộc ít người, ít xãy ra tình trạng tranh chấp, xích mích hay xung đột vì đất đai nhưng cũng có mặt cần xem xét trong việc tuyên truyền, vận động thực hiện đoàn kết Kinh - Thượng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, nhất là người Kinh giúp đỡ cho đồng bào thiểu số phát triển sản xuất, thực hiện định cư bền vững.
Trong xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số Quảng Nam, người chủ làng là người đứng đầu bộ máy tự quản của làng, là người có quyền cao nhất trong việc đưa ra những phán quyết mọi công việc của làng, thôn từ các hoạt động sản xuất, quan hệ trong cộng đồng, giải quyết quan hệ với cộng đồng bên ngoài, quyết định xử lý theo luật tục đối với thành viên của làng mình và những hành vi xâm hại của người cộng đồng khác xảy ra trên phạm vi đất đai của làng, về tín ngưỡng ... Người chủ làng là người cao tuổi, có kinh nghiệm trong sản xuất, thiên văn, am hiểu phong tục tập quán; là người giỏi giang trong hầu hết các lãnh vực trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn ... Chủ làng là người có uy tín, bản thân ông là người có đạo đức, mẫu mực, được mọi thành viên trong làng nể phục, tôn trọng và nghe theo. Người chủ làng có quyền lợi, nghĩa vụ như dân làng. Tuy nhiên phần lớn người chủ làng bên cạnh tự thân mình lo toan cuộc sống của gia đình mình thường được dân làng dành cho sự ưu ái hơn trong việc giúp sức, giúp công để khai phá đất đai làm rẫy, làm ruộng, dựng nhà cửa, mua sắm vật dụng... nên thông thường người chủ làng có nhiều của cải, ưu thế phát triển sản xuất. Thông thường người chủ làng được dân làng bầu lên một cách dân chủ, không tuỳ hạn trong cương vị chủ làng, có thể cha truyền con nối nếu người con đó có đủ những phẩm chất như người cha làm chủ làng và cũng có thể bị bãi miễn nếu không đảm đương được nhiệm vụ, có việc làm gây mất uy tín của làng hay vi phạm luật tục, không chăm lo đến lợi ích của dân làng. Người chủ làng được thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ, của mình gắn liền với tổ chức, hoạt động của một tập thể những người già của làng theo phương pháp bàn bạc, quyết định tập thể giúp cho chủ làng đưa ra những phản quyết trên tinh thần ý kiến tập thể, được xem như là một biểu hiện của tính dân chủ dù là sơ khai vì rằng ý kiến của tập thể già làng được xem như là ý kiến của toàn dân làng và người chủ làng, dân làng phải tôn tôn trọng làm theo, kể cả quyết định bãi miễn, cắt chức người chủ làng khi Hội đồng già làng xét thấy chủ làng không còn đủ tư cách, uy tín, khả năng đảm đương công việc.
Thực tế hiện nay, bề ngoài các hoạt động họp thôn, làng để phổ biến, triển khai, bàn bạc công việc của Đảng, Nhà nước ở thôn, làng thì vẫn còn tồn tại một hình thức sinh hoạt mạn đàm, trao đổi ý kiến của những người già, cao tuổi trong làng và những quyết định của họ luôn chi phối đến hoạt động sản xuất, chiếm hữu đất đai, quan hệ xã hội của gia đình, cộng đồng và ngoài cộng đồng, , các hoạt động văn hóa truyền thống và tín ngưỡng...của cả làng. Đặc tính coi trọng kinh nghiệm như là nếp nghĩ hành động theo chủ nghĩa kinh nghiệm; tôn trọng người già, cao tuổi là một trong những tư chất trong nếp nghĩ và hoạt động sống " ẩn náu, âm thầm" của đồng bào, trong từng làn, thôn vẫn còn tồn tại ở mức độ không nhỏ về vai trò, chức năng của người chủ làng và những người già làng. Bí thư chi bộ thôn, trưởng ban thôn và cả cán bộ lãnh đạo của xã nhưng phải gắn mình trong cộng đồng làng, bản; vì ở trong ấy lại có cha, chú, bác của mình và họ cũng nằm trong dòng chảy chịu sự chi phối của hoạt động cộng đồng, điều này cũng tương đồng như ở làng, thôn người Việt trước đây và ngay cả hiện nay ở nhiều làng, thôn vùng đồng bằng. Mặc dù có những biến đổi về cơ cấu tổ chức xã hội ở một số địa bàn như vùng thị trấn, nơi có giao thông thuận lợi, nơi có đồng bào Kinh cận cư nhưng về cơ bản vùng dân tộc thiểu số Quảng Nam vẫn còn bảo lưu cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống của họ, đó là tổ chức xã hội làng, thôn với những định chế lãnh đạo, điều hành và tuân thủ sự điều hành theo những thông lệ mà người ta gọi là luật tục; nên chắt lọc cái tinh túy để xem đó là một phần của văn hóa làng truyền thống trong thời kỳ hiện đại. Nên chăng xem xét và khẳng định những yếu tố, những biểu hiện tích cực về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người chủ làng, vai trò của những người già làng, những người có uy tín trong cộng đồng để họ tham gia vào công việc của làng, thôn khi triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Từ đặc điểm về tâm lý, tình cảm, tính cộng đồng và cái chung nhất là tập quán vẫn còn và sẽ còn tồn tại của văn hóa làng làm cho chúng ta nghĩ đến một cách làm có sự tôn trọng truyền thống, tập quán pháp, có lợi cho quản lý, điều hành nhân dân không chỉ trong đời sống xã hội, chính trị mà còn trong phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá làng, các tập quán pháp tốt đẹp của các tộc người miền núi ở Quảng Nam trong thời kỳ hiện đại là một vấn đề cần bàn luận thêm./.